Tôi được gần các thế hệ đi trước, càng hiểu giá trị của những giây phút sống bên cạnh họ, kể cả 3. Tô Hoài là một nhà văn lớn của Văn học Việt Nam hiện đại, người có 95 năm tuổi đời nhưng đã dành hơn 70 năm đóng góp cho văn học. cảm xúc của cô Mị yêu sống nhưng bị giam cầm trong cảnh tù túng của "Vợ chồng A Phủ" ( Phan Anh Dũng). Văn mẫu Vợ chồng A Phủ. Xem và tải tại đây. Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" in trong tập "Tây Bắc" là câu chuyện giàu giá trị nhân văn khẳng định sức sống phi thường của con người khi bị áp bức, bóc lột. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mỵ có sức ám ảnh đối với người đọc. Tô Xem trích đoạn phần đầu của phim Vợ chồng A Phủ để thấy sự khác biệt giữa truyện và phim. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài chỉ dừng lại ở phần A Phủ và Mị cùng nhau chạy trốn để đi tới một vùng đất tự do.Khi lên phim, yếu tố cách mạng được khắc họa rõ nét hơn, khi nhân vật A Phủ tới Soạn bài Vợ chồng A Phủ ngắn gọn nhất. nguyenhaiyen 08/01/2022. Mời các bạn đón đọc bản Soạn bài Vợ chồng A Phủ ngắn nhất, đây là phiên bản soạn văn 12 ngắn nhất được các thầy cô TOPLOIGIAI biên soạn với mục đích cô đọng kiến thức, giúp cho các bạn học sinh Bài mẫu số 1Đề bài: Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn "Vợ ck A Phủ" (Tô Hoài) qua định mệnh hai nhân thứ Mị và A Phủ. Bài làm:Tô Hoài là công ty văn khét tiếng với giác quan hiện thực đầy tinh tế về cuộc sống đời thường cùng sự nhạy bén trong việc Vợ chồng A Phủ mở đầu như thế, một sự mở đầu xứng đáng với giọng kể chuyện đẹp như ru . Thế giới Tây Bắc đã được mở ra xa xăm kì diệu, trên cả ý nghĩa và nhạc điệu và lời văn . Một thế giới không phải cổ tích mà như thoảng hương ca dao cổ tích, một thế giới hứa hẹn rất nhiều sức gợi cảm, qua một bức chân dung thiếu phụ buồn. Anbc2L. Vợ chồng A Phủ Tuần phim Việt trên VTVGo 51081 Lượt xem 0 Lượt thích Review phim Vợ chồng A Phủ Tuần phim Việt trên VTVgo 35645 Lượt xem 0 Lượt thích Talkshow Cảm nhận của 1977 Vlog về bộ phim Vợ chồng A Phủ 13560 Lượt xem 0 Lượt thích Talkshow Phim điện ảnh chuyển thể từ tác phẩm văn học Tuần phim Việt trên VTVgo 15473 Lượt xem 1 Lượt thích Best cut A Phủ gọi hội’ về cứu Mị Vợ chồng A Phủ 5237 Lượt xem 0 Lượt thích Best cut Mị giải cứu A Phủ Vợ chồng A Phủ 5358 Lượt xem 0 Lượt thích Best cut Lấy chồng nhà giàu có sướng không? Vợ chồng A Phủ 6324 Lượt xem 0 Lượt thích Sự tích hoa phượng 11034 Lượt xem 0 Lượt thích Trailer "Sự tích hoa phượng" 7652 Lượt xem 0 Lượt thích Phim Tết Trailer Gái già lắm chiêu 1 25042 Lượt xem 0 Lượt thích Mỵ Châu Trọng Thủy 14479 Lượt xem 0 Lượt thích Trailer phim "Mỵ Châu Trọng Thủy" 1249 Lượt xem 0 Lượt thích Tuần phim Việt trên VTVGo 52157 Lượt xem 4 Lượt thích Trailer Ma Dai Phim Tết 14224 Lượt xem 0 Lượt thích Bestcut Ai cũng có một thời dậy thì Ma Dai 12700 Lượt xem 0 Lượt thích Bestcut Khi Crush bạn lại là bố bạn Ma Dai 29347 Lượt xem 0 Lượt thích Phim Tết Trailer Yêu em bất chấp 4631 Lượt xem 0 Lượt thích Mách bố Trích đoạn 'Chú ơi đừng lấy mẹ con" 11327 Lượt xem 0 Lượt thích Review Chú ơi đừng lấy mẹ con Phim Tết 17412 Lượt xem 0 Lượt thích Trailer Chú ơi đừng lấy mẹ con Phim Tết 7108 Lượt xem 0 Lượt thích Đề Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.Hoặc phân tích nhân vật Mị và A Phủ để làm rõ giá trị nhân đạo của tác phẩmI. MỞ BÀITô Hoài là nhà văn có nhiều cống hiến cho nền văn học Việt Nam hiện đại cả hai giai đoạn trước vàsau Cách mạng tháng Tám. Ông nổi tiếng với nhiều tác phẩm nhưng tiêu biểu nhất là “Dế mèn phiêu lưu ký” và “Vợ chồng A Phủ”. Truyện “Vợ chồng A Phủ” sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Thông qua cuộc đời hai nhân vật Mị và A Phủ, tác phẩm đã để lại tinh thKn nhân đạo sâu sắc, mới mL thấm đượm trên mMi trang sách của Tô THÂN BÀI1. Khái quát Truyện “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn Tô Hoài được in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Tác phẩm gồm hai phKn phKn đKu trích học trong sách giáo khoa là phKn nói về cuộc sống đKy tủi nhục của Mị và A Phủ trong nhà thống lý Pá Tra ở Hồng Ngài, kết thúc bằng việc Mị cắt đứt dây trói cứu A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. PhKn sau là cuộc sống mới của Mị và A Phủ ở Phiềng Sa. Họ theo Cách mạng giải phóng quê trị nhân đạo là mô]t giá trị cơ bản của tác phẩm văn học chân chính. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nMi đau khổ của con người, s^ nâng niu, trân trọng nh_ng n`t đap trong tâm hồn con người và lbng tin vào khả năng vươn dâ]y của họ, đồng thời lên án nh_ng thế l^c tàn bạo, đen tối chà đạp lên quyền sống, ước mơ hạnh phúc và phẩm giá của con Nội dung cKn phân tích, làm rõa. Biểu hiện thứ nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm này trước hết được toát lên td niềm cảm thông sâu sắc của Tô Hoài đối với nh_ng số phâ]n bất hạnh, bị tước đoạt quyền sống, bị lăng nhục, đày đọa mà tiêu biểu là Mị và A Phủ. Hai s^ sống trL trung bị đày đọa khủng khiếp trong te ngục nhà thống lí Pá Tra đang bị chết dKn, chết mbn vf khổ đau. Mị – cô gái trL đap, mơn mởn như bông hoa rdng nhưng bị bắt cóc về làm con dâu gạt nợ nhà thống lý. Dưới mấy tKng áp bức của cường quyền, thKn quyền, lh giáo, hủ tục phong kiến miền núi. Mị sống âm thKm vâ]t vờ như chiếc bóng, cứ “lei lii như con rea nuôi trong xó cka”. Khi thf tưởng “mfnh cing là con trâu, mfnh cing là con ng^a”. Bởi Mị sống mà hKu như mọi quyền lợi bị tước đoạt. Mang tiếng là con dâu nhưng Mị lại là con dâu gạt nợ. Là con nợ hơn là con dâu. Là con nợ nên Mị thành nô lệ để “Tết xong thf lên núi hái thuốc phiện, gi_a năm thf giặt đay, xe đay. Cuối mea thf đi nương bL bắp…lúc nào cing cài mộtbó đay ở trong tay để tước thành sợi. Suốt năm, suốt đời như thế”. Bị bóc lột sức lao động đã đành,Mị lại cbn bị tước đoạt tuổi xuân, hạnh phúc, bị thKn quyền áp chế. Nơi Mị sống chỉ độc “một ô cka sổ, một lM vuông bằng bàn tay trông ra ngoài không biết sương hay là nắng”. Đó là chốn địa ngục trKn gian mà tên chồng A Sk đã trói buộc Mị vào đó, vei dập tuổi xuân của Mị ở Phủ, mô]t chàng trai khỏe mạnh, gan bướng, sống cuô]c sống hồn nhiên, phóng khoáng của tuổi trL yêu đời, lao đô]ng giỏi. A Phủ không nợ nKn gf nhà thống lí mà rốt cục cing biến thành kL trd nợ suốt đời bị đánh đâ]p, bị trói buô]c mô]t cách thảm khốc đến mức gKn như tê liê]t cả sức phản kháng. Cảnh xk kiện tàn bạo như thời trung cổ được Tô Hoài vẽ nên bằng một trang giấy mà ở đó s^ tàn nhẫn, độc ác đã lên ngôi. A Phủ bị đánh đập gKn như cả ngày “đKu, đuôi mắt giập chảy máu” nhưng “chỉ quỳ và im như cái tượng đá”. Đến cả cái cảnh vf để hổ bắt mất một con bb, A Phủ phải bị trói đứng lên cái cột với dây mây quấn td chân lên đến cổ. Phải chờ chết một cách vô lý trên cái cọc ấy gi_a đêm đông r`t mướt nếu không có bàn tay cứu giúp của Mị và tấm lbng nhân đạo cao Đề ra Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, thể hiện trong cảnh ngộ từ khi cô bị bắt về nhà thống lý Pá Tra cho đến đêm cởi trói cho A Phủ. THẦY PHAN DANH HIẾU – BIÊN HÒA ĐỒNG NAI BÀI LÀM Xem thêm Ai đã đặt tên cho dòng sông Ý nghĩa tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như “ O chuột”, “Dế mèn phưu lưu ký”. Sau cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”… Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị – người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do. HÃY ĐĂNG KÝ KÊNH YOUTUBE CỦA THẦY ĐỂ NHẬN BÀI GIẢNG. BẤM VÀO Mị xuất hiện ngay từ phần mở đầu tác phẩm, gây ám ảnh cho người đọc về một kiếp người héo hắt, tàn tạ “ chỉ biết cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mỵ không hiện lên bằng chân dung mà hiện lên bởi số phận – một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra. Mị là cô gái trẻ đẹp là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị tài hoa với điệu sáo làm say mê biết bao nhiêu chàng trai “ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị yêu lao động “biết cuốc nương làm ngô”. Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha già. Khi biết tin bố sẽ gạt nợ mình cho nhà thống lý, Mị tha thiết van xin “bố đừng bán con cho nhà giàu”. Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và phẩm giá của người con gái với vẻ đẹp trong ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa rừng. Nhưng có ngờ đâu sự hiểm độc của chính sách cho vay nặng lãi của bọn thổ ty phong kiến miền núi như một sợi dây oan nghiệt siết chặt lấy cuộc đời Mị. Đắng cay thay, đêm tình mùa xuân đẹp nhất của đời người con gái đã biến thành một đêm bi kịch, tủi nhục khi A Sử bắt cóc Mị về nhà thống lý. Và một buổi lễ cúng trình ma sáng hôm sau đó đã trói chặt cuộc đời Mị từ đấy. Lúc đầu mới về “làm dâu” để phản kháng lại cái sự vô lí ấy, Mị đã “hằng mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc”. Khóc là biểu hiện của trạng thái tâm lí bị ức chế, không cam chịu, không chấp nhận cái sự thật nghiệt ngã ấy. Mị cũng đã từng nghĩ đến cái chết khi cầm nắm lá ngón về tự tử trước mặt cha nhưng vì thương cha già Mị không đành chết. Mị ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi tuổi trẻ hạnh phúc của mình để quay về nhà thống lý chấp nhận kiếp sống trâu ngựa. Cái địa ngục trần gian ấy đã giam cầm cuộc đời Mị. Tuổi xuân của Mị bị vùi dập đến héo úa, lụi tàn trong căn buồng chỉ độc một cái cửa sổ nhỏ như lòng bàn tay “trông ra ngoài không biết sương hay là nắng”. Mị bị nô lệ hóa trở thành công cụ lao động. Nói đúng hơn là bị bóc lột sức lao động một cách tàn tệ trở thành một súc nô trong nhà thống lý. Cuộc sống của Mị bị vùi vào công việc cả đêm lẫn ngày “tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, cuối mùa thì đi nương bẻ bắp…”. Không chỉ vậy, Mị còn bị bóng ma thần quyền áp chế làm cho tê liệt về tinh thần, mất hết cả ý thức phản kháng. Nhà văn Tô Hoài đã nhiều lần so sánh Mị với con vật con ngựa, con trâu, con rùa. Từ đó Mị sống trong vô cảm, tâm hồn bị phong kín bởi sự lặng câm, băng giá “càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thử hỏi còn xót xa nào hơn thế nữa không ? Nhưng bằng cảm quan nhân đạo và tấm lòng yêu thương đồng cảm với số phận con người, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc những thước phim quay chậm về sự bừng lên của một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đang âm ỉ cháy trong con người Mị. Bên ngoài là một cô Mị lầm lũi như cái bóng, như đã chết nhưng bên trong lại ẩn chứa lòng ham sống. Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm. Vô tình cơn gió của đêm tình mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch. Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ và chắc chắn không thể thiếu được “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường”. Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả đặc sắc, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng. Chính tiếng sáo đã tác động đến Mị, góp phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh. Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy trong Mị một kí ức tươi đẹp. Nói đúng hơn nó đánh thức cái tài hoa trong Mị. Mị thổi sáo hay, thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp nhưng đối lập với một hiện tại buồn mênh mang. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương Ta chưa có con trai con gái Ta đi tìm người yêu Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành động “nổi loạn nhân tính”. Mị tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để giải sầu“ Mị uống ực từng bát rồi say”. Mị uống như nuốt căm hận vào lòng. Sự bất bình thường ấy đã nói lên tất cả. Sức chịu đựng có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây Mị không còn lặng câm nữa mà đã hồi sinh. Mị đang sống về ngày trước và không gì có thể ngăn được niềm vui sướng của Mị “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Còn gì hạnh phúc bằng khi mình tìm lại được chính mình ? Tô Hoài đã thâm nhập vào mê cung tâm trạng của người phụ nữ này và bằng lòng cảm thông yêu thương sâu sắc, nhà văn đã làm người đọc thực sự xúc động trước những biến đổi về tâm lý của Mị. Con rùa nuôi trong xó cửa ấy đã không còn lùi lũi nữa rồi. Nó đã phá vỡ cái bức tường vô cảm kia để khát khao tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ, của hạnh phúc. Mị nhận thức được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy mình còn trẻ “Mị trẻ lắm. Mị hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát sống, còn muốn yêu thương. Đúng là một cảm xúc bi kịch nhận ra mình còn trẻ khi mà tuổi xuân bị tước đoạt rồi và sống trong hoàn cảnh đáng thương này thì đúng là bi kịch. Nhưng dù đó là bi kịch thì Mị vẫn vui sướng vì dù sao Mị vẫn còn là chính mình với trái tim đầy khát vọng. Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là một nỗi tủi thân. Tủi thân khi nghĩ về thực tại. Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. A Sử – kẻ khốn nạn ấy đã giam hãm cuộc đời Mị và dẫu “không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau”. Cảm xúc ấy như một gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tất cả niềm vui sướng mà nãy giờ Mị chắt chiu dành dụm. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô. Mị lại tưởng đến nắm lá ngón, Mị ước ao có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này dễ thông cảm nhưng hơn hết Tô Hoài đã mang đến cho người đọc sự lột xác của Mị. Muốn chết chính là biểu hiện của sức sống. Khi Mị đã hồi sinh, khó có thể nào chấp nhận được thực tại cay đắng này. Nhưng không có nắm lá ngón, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi mà tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo gọi, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Mị phải đứng dậy thôi! Mị hành động trong lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc cóng muộn phiền. Ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Tô Hoài đã diễn tả thật sâu sắc cái khát vọng cháy bỏng ấy của Mị bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu nỗi cảm thông chia sẻ. Câu văn ngắn, nhịp gấp thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt của nhân vật “Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Mị hành động thản nhiên, dù Mị biết A Sử đang hiện diện trong căn buồng của Mị. Nhưng Mị không sợ, bóng ma thần quyền đã không thể nào làm gì được Mị nữa rồi. Nhưng đớn đau thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị miền núi đã dập tắt đi cái khát vọng và sự trỗi dậy đó của Mị. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi đay, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng đầu được nữa. Nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống bằng tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn của Mị. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình của tuổi trẻ. Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn Mị đang “đi theo những cuộc chơi những đám chơi”. Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, ăm ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập cả vào hồn Mị làm Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn “Mị vùng bước đi”. Hành động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói hoặc có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác. Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được” lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù đau đớn, tủi nhục. Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong “hơi rượu tỏa” cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì “nồng nàn tha thiết nhớ”. Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết “Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết”. Sợ chết là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì có thể dập tắt nổi. Nói như nhà văn Lỗ Tấn “Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai”. Chắc chắn đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành đợt sóng thần của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó. Cũng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, A Phủ trở thành trâu ngựa trong nhà Pá Tra. Hai số phận nhưng một cảnh ngộ. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu. Vì để hổ bắt mất một con bò, mạng sống của A Phủ bị treo lên giá chết. Án tử đang đợi A Phủ từng phút từng giây. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn. Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy sưởi ấm cho nhau. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng như thế, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng đến nhẫn tâm. Phải chăng “Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi” nên Mị không còn nhận ra nỗi khổ của người khác. Và nếu đúng như vậy thì đớn đau thay Mị đã đánh mất đi lòng nhân ái mà trong bản thân người phụ nữ nào cũng có. Khi và chỉ khi dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dấu hiệu của sự chết đã xuất hiện trên khuôn mặt của người nô lệ ấy thì trái tim Mị mới bừng tỉnh, lòng thương người trong Mị mới trỗi dậy. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lúc này đây, Mị mới thấm thía được nỗi cùng cực của kiếp người. Thương người, Mị lại thương mình. Mị hình dung lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc của cuộc đời mình. A Phủ sao mà giống Mị thế, Mị cũng từng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được». Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà bị trói chết trong căn nhà này. Mị càng căm phẫn càng uất hận “chúng nó thật độc ác”. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Nhưng Mị không có quyền bỏ mặc người khác. Lý trí mách bảo Mị rằng phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc Mị phải hành động. Nhưng Mị chợt chùn lại. Mị giằng xé dữ dội giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ. Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị nào đâu thấy sợ, bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Mị táo bạo, Mị quyết liệt, Mị nổi loạn. Chính hành động cắt dứt sợi dây trói đã phần nào cho thấy vẻ đẹp sức sống của Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám dứng lên đương đầu với lũ ác thú. Dù còn là mang tính tự phát nhưng đó là dấu hiệu dự báo cho thấy được sự bừng tỉnh của những nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách mạng. Có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt dây trói cho A Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời mình. Mị đã làm một việc động trời nhưng đó là tất yếu. Cái giây phút Mị đứng lặng trong bóng tối là Mị sống trong sự ngổn ngang trăm mối. Lòng Mị rối bời với câu hỏi chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Cuối cùng tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Những bước chân của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm tối như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn họ biết bao nhiêu năm qua. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín “A Phủ. Cho tôi đi!… Ở đây thì chết mất”. Đó là câu nói thể hiện niềm khao khát sống và khát khao tự do đến mãnh liệt. Và tiếng gọi tự do đang vẫy gọi họ phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng Ngài hôm nay còn chăng là những ngày buồn đau, tủi nhục. Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn. Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua nhân vật Mị nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ miền núi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Sức sống tiềm tàng ấy giúp nhà văn khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Việt Nam và chân lí muôn đời ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Đây chính là cuộc đấu tranh đi lên từ tự phát đến tự giác theo ánh sáng của cách mạng. Đó là giá trị nhân văn ngời sáng của tác phẩm. THẦY PHAN DANH HIẾU Đề ra Trong đoạn kết tác phẩm “Vợ chồng A phủ” lúc đầu nhìn thấy A Phủ bị trói đứng vào cột “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Nhưng sau đó thì Mị lại cắt đứt dây trói cho A Phủ và cùng anh chạy trốn khỏi Hồng Ngài. Nhận xét về sự thay đổi đó ở Mị và nêu những điểm mới về giá trị nhân đạo của tác phẩm. HƯỚNG DẪN CHI TIẾT BÀI II. THÂN BÀI 1. Khái quát – Xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. – Khái quát trước đoạn kết Mị là cô gái trẻ đẹp, giàu tài năng của núi rừng Tây Bắc. Vì món nợ cho vay nặng lãi của cha mẹ, Mị buộc phải làm con dâu gạt nợ trong nhà thống lý. Cuộc sống thống khổ của chốn địa ngục trần gian khiến Mị chai sạn, vô cảm. Đêm tình mùa xuân năm ấy, sức sống trỗi dậy, Mị uống rượu, thổi sáo, nhận thức được tuổi trẻ. Mị thèm đi theo những cuộc chơi những đám chơi. Nhưng A Sử đã chặn đứng khát vọng đó của Mị bằng một thúng sợi đay, hắn trói Mị vào cột. Mị không cảm thấy bị trói, tâm hồn Mị vẫn đi theo tiếng gọi đêm tình. Chính sức sống đêm tình năm ấy đã tạo điều kiện cho sự bừng tỉnh nhận thức và cháy bùng lên ngọn lửa giải thoát cho A Phủ sau này. Vì để hổ bắt mất một con bò nên A Phủ phải chịu trói, chờ chết. Cha con nhà thống lí đã trói A Phủ vào cột. A Phủ đang rơi vào tình trạng chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. BÀI GIẢNG VĂN MIỄN PHÍ. BẤM VÀO ĐÂY VÀ ĐĂNG KÝ NGAY 2. Nội dung chính Lúc đầu nhìn thấy A Phủ bị trói đứng vào cột, Mị không mảy may mủi lòng, không cảm xúc “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Tâm trạng Mị lúc đầu là trạng thái VÔ CẢM Sau đêm tình mùa xuân, Mị trở lại với kiếp sống chai sạn, băng giá, tê liệt về cả thể xác lẫn tinh thần. Những gì xảy ra xung quanh, Mị không cần biết, không đoái hoài, không quan tâm. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện. Kể cả lúc ra sưởi lửa, bị “A Sử đánh ngã xuống cửa bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước”. Mị vô cảm với chính bản thân mình, không còn cảm nhận được nỗi đau đớn của thể xác, không còn cảm nhận được sự nhục nhã về tinh thần. Thể xác bị chà đạp, tinh thần bị lăng nhục, nhưng Mị vẫn dửng dưng, không tức giận, tủi hờn hay sợ hãi. Khi Mị vô cảm với chính mình cũng là lúc mà Mị chẳng còn thiết tha đến mọi thứ xung quanh. Mị vô cảm luôn với cả đồng loại của mình“nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Các từ ngữ “thản nhiên”, “cũng thế thôi” cho thấy sự thản nhiên, vô tâm đến lạnh lùng, vô cảm đến tàn nhẫn của Mị. Đắng cay cho Mị – cô đã đánh mất luôn cả tình thương, lòng nhân ái mà bất cứ ở người phụ nữ nào cũng có. Mị chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa. Lửa cũng cô đơn, Mị cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy thức sưởi ấm cho nhau trong những đêm đông dài lạnh lẽo. Sau đó, tâm trạng Mị có sự thay đổi từ trạng thái vô cảm đến đồng cảm bởi giọt nước mắt của A Phủ, bởi sự thức dậy của lòng thương người Có nhà phê bình cho rằng “Khi tình thương chạm vào trái tim thì cho dù sỏi đá cũng thành châu lệ”. Quả đúng như vậy, dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương người trong Mị. Chính nhờ ngọn lửa đêm ấy, Mị lé mắt trông sang và nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Dòng nước mắt ấy là nước mắt của kẻ đang hấp hối, nước mắt của một thân phận nô lệ đang bất lực, tủi nhục trước số phận. Nước mắt A Phủ không chỉ chảy xuống đôi gò má xạm đen của anh mà còn chảy vào cả trái tim băng giá của Mị. Trái tim vốn chỉ còn biết giá băng lại được dòng nước mắt ấy của A Phủ chạm đến. Và giọt nước mắt ấy đã làm tan đi giá băng của trái tim Mị, đập vỡ bức tường vô hình cầm tù trái tim Mị; đã thức dậy trong Mị lòng thương người cùng cảnh ngộ. Khi lòng thương người trỗi dậy, là lúc trái tim Mị quặn đau khi “trông người lại ngẫm đến mình”. Mị chợt “nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được”. Nhà văn không nói đến nỗi đau đớn về thể xác của A Phủ, không nói đến nỗi tủi nhục của A Phủ nhưng tất cả điều đó lại hiện lên tất cả qua suy nghĩ của Mị. Mị đã cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng chính nỗi đau của mình. Tài liệu này của thầy Phan Danh Hiếu Từ đó Mị nhận thức rõ và căm thù sự độc ác của nhà Thống lí Pá Tra Mị thốt lên “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Mị nhận ra giá trị của con người, giá trị được sống nhưng lại bị bắt chết. Từ nhận thức về thân phận con người, Mị nguyền rủa cha con nhà thống lí “Chúng nó thật độc ác”. Khi một kẻ đang trong tình trạng mất hết ý thức lại nhận ra nguyên nhân của cái khổ mà mình gánh chịu thì đúng là một cuộc lội ngược dòng của ý thức. Chắc chắn, ý thức này sẽ trỗi dậy, sẽ phản kháng mãnh liệt chứ không dừng lại ở đây. Từ lòng thương người và lòng căm thù, Mị nhận ra sự độc ác và bất công. Mị phản kháng mãnh liệt cả trong suy nghĩ và hành động từ cảnh ngộ của mình và những người đàn bà bị hành hạ ngày trước, đến cảnh đau đớn và bất lực của A Phủ trước mắt, Mị nhận thấy “chúng nó thật độc ác”, thấy “người kia việc gì mà phải chết”. Đó là sự nhận thức mang tính lý trí chứ không phải là cảm tính nữa. Mị độc thoại với chính mình “Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi… Người kia việc gì phải chết?” Đoạn văn có sự điệp đi điệp lại một loạt từ “chết” như chính nỗi ám ảnh của Mị về cái chết. Và đặt mình cùng A Phủ lên bàn cân của số phận. Mị thấy, Mị có chết cũng là tất yếu vì “Ta là thân đàn bà”; “Nó đã bắt ta về cúng trình ma nhà nó rồi thì đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ đến APhủ, Mị thấy phi lí “người kia việc gì mà phải chết”. Trong suy nghĩ ấy, Mị đã nghiêng hết phần sống của mình cho A Phủ. Đó là tấm lòng nhân ái bao la của cô gái vùng cao Tây Bắc. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con người. Lòng thương người thức dậy trong Mị và đang hình thành hành động. Tài liệu này của thầy Phan Danh Hiếu Mị tưởng tượng rằng “như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Nếu như ngày trước Mị đã từng sợ chết thì bây giờ cái chết với Mị không còn là điều đáng sợ nữa. Điều gì đã làm cho Mị không sợ hãi? Phải chăng đó là lúc Lòng thương người trong Mị đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Tình thương ấy khiến cô đi đến hành động cởi trói cho A Phủ “Mị lấy con dao chấu nhỏ, cắt từng nút dây mây”. Cuối cùng thì Mị đã cởi trói cho A Phủ. Nhưng hành động cởi trói ấy cũng là hành động mà Mị tự giải thoát cho chính mình. Đây cũng là sự tất yếu của quá trình đấu tranh tâm lý. Đoạn văn cuối cùng tác giả diễn tả sự quật khởi của Mị với sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sức phản kháng quyết liệt Đối mặt với hiểm nguy Mị cũng hốt hoảng “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Câu văn tách thành một dòng riêng nằm chơi vơi ở giữa những câu chữ ngổn ngang. Theo “nguyên lý tảng băng trôi” – hình ảnh Mị đứng lặng chỉ là phần nổi còn ẩn sau những câu chữ và hành động ấy của Mị là cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội sống hay là chết; tự do hay nô lệ; đi hay ở ? Cuối cùng tiếng gọi tự do đã vẫy gọi Mị. Trong giây phút đối diện với bản án tử hình ấy lòng ham sống mãnh liệt đã thúc giục Mị chạy theo A Phủ. Đoạn văn tiếp theo miêu tả hành động Mị toàn những động từ mạnh “vụt chạy – băng đi – đuổi kịp – đã lăn – chạy – chạy xuống – nói – thở”. Những động từ mạnh ấy đã giúp Tô Hoài nhìn thấy được nội lực và sức phản kháng mạnh mẽ cháy bùng trong Mị. “Một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai” Lỗ Tấn – nếu đêm tình mùa xuân là “tia lửa nhỏ” thì hành động chạy theo APhủ của Mị thực sự đã trở thành “đám cháy”. Cuối cùng Mị đã có sự lựa chọn đúng đắn khi mà khát vọng sống trỗi dậy thật mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ, cũng có nghĩa là chạy thoát cuộc đời nô lệ, đến với ánh sáng của tự do. Bước chân Mị như đạp đổ thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến bao năm qua đè nặng lên Mị. Mị đã nói trong cơn gió thốc “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là câu nói thể hiện lòng ham sống, khát vọng tự do đến mãnh liệt trong Mị. Sau bao nhiêu năm bị thần quyền, cường quyền đè nặng làm Mị dường như quên đi tiếng nói của đồng loại thì nay Mị đã sống lại. Và câu nói đầu tiên Mị nói được cũng lại là câu nói đòi tự do, đòi được sống. Tài liệu này của thầy Phan Danh Hiếu Nhận xét về sự thay đổi trong tâm trạng của Mị Từ trạng thái vô cảm, Mị đã đồng cảm với nỗi đau thân phận của A Phủ. Đây là sự chuyển biến lớn trong tâm lý của Mị dẫn đến thay đổi cục diện của tác phẩm. Qua sự thay đổi này Tô Hoài đã khẳng định được chân lý “sức mạnh lớn nhất mà nhân loại có được chính là lòng yêu thương con người”. Từ đồng cảm, Mị đã đi đến hành động táo bạo, quyết liệt – “cởi trói cho A Phủ”. Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Đó chính là sức phản kháng mạnh mẽ của nhân vật và cũng là sự mở đường của nhà văn đưa nhân vật tới chân trời mới. Miêu tả sự hồi sinh của Mị qua hai chi tiết trên, Tô Hoài đã mang đến những nét mới trong cảm hứng nhân đạo của văn học hiện thực phê phán sau năm 1945. – “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” Nguyễn Minh Châu. Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy khi mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt mà không thế lực nào có thể dập tắt được. – Nhà văn đặt niềm tin vào con người, vào sức vươn dậy của nhân vật Mị. Nếu bức chân dung của những người nông dân trước cách mạng mà ta bắt gặp đâu đó như ở Chí Phèo, lão Hạc, anh Pha, chị Dậu,… tất cả đều bị dồn vào bước đường cùng. Những bức chân dung kia hoàn toàn thiếu ánh sáng của Đảng của cách mạng chiếu rọi, thì nhà văn Tô Hoài lại phản chiếu vào nhân vật của mình ánh sáng của cách mạng và ý thức của thời đại. Nhà văn đã bước qua được những giới hạn của dòng văn học hiện thực phê phán trước Cách mạng để giải phóng số phận nhân vật. Mặt khác, việc Mị cởi trói cho A Phủ có thể coi như một chiếc bản lề khép mở hai thế giới. Nó khép lại thế giới tăm tối của cuộc sống trâu ngựa, nô lệ ở Hồng Ngài. Nó mở ra một cuộc sống tươi sáng ở Phiềng Sa. Hành động Mị cởi trói cho A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài đến với tiếng gọi của Cách mạng là một mốc son chói lọi trong tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của Tô Hoài nói riêng và của các nhà văn sau cách mạng nói chung. Như vậy tiếng kêu cứu của Nam Cao trước cách mạng đã được Tô Hoài hồi đáp bằng cách giải phóng cho số phận con người, hướng con người đến ánh sáng của tự do. 3. Thành công của tác giả Tô Hoài trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Mị đó là Thành công của Tô Hoài trong việc xây dựng nhân vật Mị đó là Nhà văn có biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo nhất là những diễn biến tâm trạng đầy phức tạp của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ. Nghệ thuật trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên đầy ấn tượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ…nhà văn đã tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn; cách miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tài tình, hợp lí tạo nên sự thay đổi số phận nhân vật một cách thuyết phục. III. KẾT BÀI Nhân vật Mị là linh hồn là hơi thở của tác phẩm. Xây dựng nhân vật Mị là một thành công đặc sắc của nhà văn Tô Hoài. Qua việc miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, Tô Hoài đã khẳng định sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát vọng tự do của nhân dân lao động Tây Bắc dưới sự thống trị của bọn lãnh chúa thổ ty miền núi. Có nhà phê bình đã cho rằng “Văn học nằm ngoài mọi sự băng hoại. Chỉ riêng mình nó không chấp nhận quy luật của cái chết”. Đúng vậy, sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Tô Hoài cũng đã làm nên sức sống trường tồn, vĩnh cửu của tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ”. Thầy Phan Danh Hiếu Ghi rõ nguồn vì tài liệu đã in thành sách. Mở bài Vợ chồng A Phủ – 1 Tây Bắc là mảnh hồn thiêng của núi sông, là miền đất hứa có khả năng sản sinh ra năng lượng dồi dào cũng như truyền cảm hứng cho biết bao nhà văn, nhà thơ để họ viết nên những trang thơ, trang văn lấp lánh. “Người mẹ của hồn thơ” ấy đã phả hồn vào bao vần thơ đẹp của Chế Lan Viên, đã lấp lánh “chất vàng mười” trong hình tượng người lái đò của cụ Nguyễn Tuân và phả vào trang viết của Tô Hoài sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người lao động. Đó là sức sống bền bỉ, tiềm tàng của nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” mà mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên. Mở bài Vợ chồng A Phủ – 2 “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” Nguyễn Minh Châu. Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy khi mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt mà không thế lực nào có thể dập tắt được. HÃY ĐĂNG KÝ KÊNH YOUTUBE CỦA THẦY ĐỂ NHẬN BÀI GIẢNG. BẤM VÀO Mở bài Vợ chồng A Phủ – 3 Với trên 200 đầu sách, Tô Hoài hiện là một trong những nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc, tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất qua nhân vật Mị hoặc A Phủ Kết bài Vợ chồng A Phủ 1 Gấp lại những trang sách của Tô Hoài mà dư âm về nhân vật Mị, về cô gái Mèo với sức sống mãnh liệt, về số phận đáng thương của người dân nghèo dưới chế độ chủ nô phong kiến miền núi vẫn in đậm trong tâm khảm của bạn đọc. Sức sống của Mị hay sức hút của ngòi bút Tô Hoài quả thực có sức lay động lòng người để lại những day dứt, ám ảnh không nguôi. Kết bài Vợ chồng A Phủ 2 Tóm lại, nhân vật Mị là linh hồn là hơi thở của tác phẩm. Xây dựng nhân vật Mị là một thành công đặc sắc của nhà văn Tô Hoài. Qua việc miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, Tô Hoài đã khẳng định sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát vọng tự do của nhân dân lao động Tây Bắc dưới sự thống trị của bọn lãnh chúa thổ ty miền núi. Có nhà phê bình đã cho rằng “Văn học nằm ngoài mọi sự băng hoại. Chỉ riêng mình nó không chấp nhận quy luật của cái chết”. Đúng vậy, sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị cũng đã làm nên sức sống trường tồn, vĩnh cửu của tác phẩm Vợ Chồng APhủ. XEM CÁCH MỞ BÀI HAY – VIDEO BÀI GIẢNG – KHÔNG XEM THÌ PHÍ CẢ THANH XUÂN HỌC VĂN

vợ chồng a phủ phan danh hiếu